Con nuôi thực tế có được công nhận tại Việt Nam?
Con nuôi thực tế có được công nhận tại Việt Nam?
Bài liên quan
Thực trạng hiện nay có nhiều vụ án về tranh chấp thừa kế có
liên quan đến trường hợp con nuôi thực tế.
Để giải quyết vấn đề này Luật Nuôi con nuôi năm 2010 đã đưa ra
điều khoản chuyển tiếp về việc công nhận nuôi con nuôi thực tế.
Quy định hướng
dẫn về điều kiện được công nhận con nuôi thực tế theo Luật Nuôi con nuôi năm
2010:
Thứ nhất,
pháp luật yêu cầu người nhận con nuôi phải đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền.
Thứ hai,
trong một thời gian dài, việc nuôi con thực tế diễn ra thường xuyên và phổ biến.
Tại Thông tư số 81/TANDTC ngày 24/07/1981 của TANDTC quy định
“Con nuôi được thừa kế phải là con nuôi hợp pháp, tức là việc nuôi con nuôi phải được Ủy ban nhân dân cơ sở nơi trú quán của người nuôi hoặc của đứa trẻ công nhận và ghi vào sổ hộ tịch (Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình). Tuy nhiên, trong thực tế có những trường hợp nhân dân chưa hiểu pháp luật cho nên chưa xin chính quyền công nhận và đăng ký vào sổ hộ tích việc nuôi con nuôi. Trong trường hợp này, nếu việc nhận con nuôi là ngay thẳng, cha mẹ đẻ của đứa trẻ hoàn toàn tự nguyện, việc nuôi dưỡng đứa trẻ được bảo đảm, thì coi là con nuôi thực tế. Con nuôi và bố mẹ nuôi có quyền thừa kế lẫn nhau. Con nuôi (hợp pháp hay thực tế) không được thừa kế theo luật đối với di sản của bố mẹ đẻ và anh, chị, em ruột”.
Có thể hiểu
trong trường hợp nếu việc nuôi con trước đây chưa được ghi vào sổ hộ tịch nhưng
việc nuôi con nuôi đã được mọi người công nhận và cha mẹ nuôi đã thực hiện
nghĩa vụ với con nuôi thì việc nuôi con nuôi vẫn có những hậu quả pháp lý do luật
định. Nên việc nuôi con nuôi trước khi Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực vẫn có thể
được công nhận.
Thứ ba, tại
khoản 1 Điều 50 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định
“Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau trước ngày Luật này có hiệu lực mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được đăng ký trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi;
b) Đến thời điểm Luật này có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai bên còn sống;
c) Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và con.”
Như vậy có
thể thấy trường hợp nuôi con nuôi nhưng không đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền
vẫn có thể được công nhận và được xem là trường hợp con nuôi thực tế.
Đặng Yến Nhi




Đăng nhận xét