TAND Tối cao giải đáp về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
Tòa án nhân dân Tối cao giải đáp một số vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án hình sự liên quan đến tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
Khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự là tổng số tiền lãi thu được từ việc cho vay hay là khoản tiền lãi thu được sau khi trừ đi tiền lãi theo quy định của Bộ luật Dân sự?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự thì “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận . Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay…”. Do đó, khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự là số tiền lãi thu được sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự trong vụ án là tổng số tiền lãi mà người phạm tội thu được của tất cả những người vay hay số tiền lãi thu được của từng người vay?
Khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự là tổng số tiền lãi mà người phạm tội thu được của tất cả những người vay, nếu hành vi cho vay lãi nặng được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.
Trường hợp một người thực hiện nhiều lần
hành vi cho vay lãi nặng, mà tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần phạm tội
từ 100 triệu đồng trở lên, nếu các lần phạm tội đều chưa bị truy cứu trách nhiệm
hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự, thì ngoài việc bị áp dụng khung hình phạt tương ứng
với giá tài sản chiếm đoạt, họ còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự “phạm tội 02 lần trở lên “ quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ
luật hình sự.
Khoản tiền thu lợi bất chính mà người phạm tội thu được từ việc cho vay
lãi nặng bị tịch thu sung công hay trả lại cho người vay?
Theo quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 468 của
Bộ luật Dân sự thì : “Trường hợp lãi suất
theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức
lãi suất vượt quá không có hiệu lực”. Do đó, khoản tiền lãi tương ứng với mức
lãi suất trên 20%/năm là khoản tiền mà người phạm tội thu lợi bất chính của người
vay nên được trả lại cho người vay tiền, trừ trường hợp người vay tiền sử dụng
tiền vay vào mục đích bất hợp pháp (như đánh bạc, mua bán trái phép chất ma
túy…) thì khoản tiền thu lợi bất chính bị tịch thu suy công quỹ nhà nước.
Khoản tiền người phạm tội dùng để cho vay và khoản lãi tương ứng với mức
lãi suất 20%/năm có xác định là phương tiền phạm tội để tịch thu sung quỹ Nhà
nước hay trả lại cho người phạm tội?
Đối với khoản tiền cho vay (tiền gốc) được
xác định là phương tiện phạm tội, nên bị tịch thi sung quỹ Nhà nước.
Đối với khoản tiền lãi tương ứng với mức
lãi suất 20%/năm tuy không bị tính khi xác định trách nhiệm hình sự, nhưng đây
cũng là khoản tiền phát sinh từ tội phạm, đồng thời hoạt động cho vay lãi nặng
thường gắn với các băng nhóm tội phạm. Do đó, để bảo đảm yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm thì Tòa án phải tuyên tịch thu suy công quỹ Nhà nước khoản
tiền này.
Người vay tiền trong vụ án cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự tham
gia tố tụng với tư cách là bị hay hay là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan?
Theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật tố tụng Hình sự thì người
vay tiền trong trường hợp này tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Trong vụ án cho vay lãi nặng trong
giao dịch dân sự có bắt buộc phải trưng cầu giám định về tiền lãi không?
Tại Điều 4 của Thông tư liên tịch số
01/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP ngày 13-12-2017 quy định những trường hợp cần
thiết phải trưng cầu giám định tư pháp trong giải quyết vụ án, vụ việc về tham
nhũng, kinh tế thì việc xác định tiền lãi, tiền lãi nặng trong vụ án này không
thuộc trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định tư pháp.
BẢO VỆ TỐT NHẤT QUYỀN LỢI CHÍNH ĐÁNG CỦA THÂN CHỦ