Đánh gục người khác vì chó cưng bị đá – Chủ chó ở Quận 7 có phải chịu trách nhiệm hình sự không?
Đánh gục người khác vì chó cưng bị đá – Chủ chó ở Quận 7 có phải chịu trách nhiệm hình sự không?
VANTHONGLAW - Vào khoảng 21 giờ ngày 02/02/2023, tại chung cư Riverside nằm trên đường Đào Trí, phường Phú Thuận, Quận 7, anh Nguyễn Hoàng D dẫn con trai vào sảnh tầng 1 đợi thang máy. Trong lúc hai cha con anh D đang đợi thang máy thì xuất hiện một chú chó không có người dắt, không dây xích, không rọ mõm liên tục tiến đến gần con trai anh D chơi đùa. Thấy con trai sợ sệt, cứ lùi về sau nên anh D đã đá vào người chú chó để đuổi đi. Ngay sau đó, ông Vinh (là chủ chú chó) đã xông lên dùng tay đánh vào mặt ông D. Hậu quả là ông D được bệnh viện chẩn đoán: Sưng bầm vùng gò má trái, trầy xước gò má trái, rách mí mắt trái và phải khâu 5 mũi, vỡ mảnh răng cửa hàm dưới trái, ngực trái có vết sưng.
Trình
bày về sự việc trên, ông V cho rằng: khi chó của ông cắn vào đồ chơi của em bé
thì chỉ là cắn theo kiểu cắn yêu, không có dấu hiệu tấn công hay gây nguy hiểm,
thì ông D có dùng chân đá con chó ra. Lúc đó, vì xót cho chó mình nuôi, anh thừa
nhận bản thân đã mất kiềm chế, bộc phát hành động không đúng.
Về
phía ông D, sau khi bị ông V hành hung, ông D đã đến công an phường Phú Thuận,
Quận 7 trình báo. Theo đơn tố cáo của ông D, khi ông đang dẫn con trai vào sảnh
tầng 1 đợi thang máy tại chung cư Q7 Riverside, thì bị một chú chó không có người
dắt, không dây xích, không rọ mõm liên tục tiến lại gần. Thấy vậy, ông D dùng
chân đuổi con chó ra xa thì bị ông V tấn công, khiến anh ngã lăn ra đất.
· Quy định pháp luật về hành vi của ông V
Hành
vi trên của ông V là cố tình hành hung người khác. Theo đó, Điều 134 Bộ luật Hình sự quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác như sau:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;
b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;
đ) Có tổ chức;
e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;
i) Có tính chất côn đồ;
k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.”
Như
vậy, cho dù thương tích mà ông V gây ra dưới 11% nhưng ông D có đơn đề nghị xử
lý hình sự về tội Cố ý gây thương tích thì cơ quan điều tra vẫn có thể khởi tố
vụ án hình sự, khởi tố bị can là ông V để xử lý về tội Cố ý gây thương tích với
tình tiết định khung là hành vi có tính chất côn đồ với mức phạt là: cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Ngoài
ra, ông V còn phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho ông D, bao gồm: chi phí cứu
chữa, tiền công người chăm sóc, thu nhập bị mất, bị giảm sút và bồi thường một
khoản tiền tổn thất về tinh thần không quá 50 tháng lương cơ bản.
Bên
cạnh đó, trong trường hợp ông D không có đơn đề nghị xử lý hoặc rút đơn, cơ
quan chức năng cũng sẽ xử phạt vi phạm hành chính đối với ông V vì các lỗi thả
rông vật nuôi và hành hung gây thương tích đối với người khác. Theo đó, pháp luật
quy định, người có hành vi cố ý gây thương tích cho người khác, nhưng chưa đến
mức truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt
tiền từ 5-8 triệu đồng.
BẢO VỆ TỐT NHẤT QUYỀN LỢI CHÍNH ĐÁNG CỦA THÂN CHỦ