Quy định hướng dẫn tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả”
Quy định hướng dẫn tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả”
VTL - Tình tiết “người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi
thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ
luật Hình sự hiện hành được xem là một trong những tình tiết giảm nhẹ quan
trọng được Tòa án áp dụng để giải quyết vụ án hình sự. Nghị quyết
04/2025/NQ-HĐTP ngày 30/9/2025 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
có hiệu lực từ ngày 15/11/2025 có hướng dẫn cụ thể tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự này. Quy định hướng dẫn giúp thống nhất việc áp dụng tình tiết
giảm nhẹ và giải quyết những vướng mắc khi áp dụng trong thực tiễn xét xử.
Bài liên quan
Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 04/2025/NQ-HĐTP quy định các
trường hợp thuộc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội tự
nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” quy định tại điểm
b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Thứ nhất, Người
phạm tội tự mình hoặc đồng ý để cha, mẹ, người khác (vợ, chồng, con, anh, chị,
em, bạn bè...) sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi
phạm tội của người phạm tội gây ra.
Tình tiết giảm nhẹ được thừa nhận khi người phạm tội
trực tiếp bồi thường hoặc đồng ý để người khác như cha, mẹ, vợ, chồng, con,
anh, chị, em, bạn bè… bồi thường thay. Yếu tố “tự nguyện” vì vậy không bắt buộc
phải do chính người phạm tội đứng ra trả tiền, mà chỉ cần họ chủ động hoặc đồng
thuận với việc khắc phục hậu quả. Đây là một cách tiếp cận phù hợp với thực tế,
nhất là với những bị cáo không có điều kiện kinh tế nhưng vẫn có thiện chí nhờ
gia đình hỗ trợ.
Thứ hai, Người
phạm tội không có trách nhiệm sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả
do hành vi phạm tội của mình gây ra (như: việc bồi thường thiệt hại thuộc trách
nhiệm của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ hoặc thuộc trách nhiệm dân sự của
các bị cáo khác trong cùng vụ án) nhưng đã tự nguyện dùng tiền, tài sản của
mình hoặc đồng ý để cha, mẹ, người khác (vợ, chồng, con, anh, chị, em, bạn
bè...) sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội
của người phạm tội gây ra.
Theo đó, ngay cả khi người phạm tội không có nghĩa vụ
dân sự trong vụ án nhưng vẫn tự nguyện dùng tiền hoặc tài sản của mình để khắc
phục thiệt hại thì được công nhận là đã thể hiện thái độ tích cực và được áp
dụng tình tiết giảm nhẹ này. Quy định trên giúp ghi nhận đúng mức sự ăn năn của
người phạm tội, đồng thời khuyến khích họ tham gia khắc phục hậu quả vượt ngoài
phạm vi trách nhiệm pháp lý bắt buộc.
Thứ ba, Người
phạm tội tự nguyện hoặc đồng ý để cha, mẹ, người khác (vợ, chồng, con, anh,
chị, em, bạn bè...) dùng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc
phục hậu quả do hành vi phạm tội của người phạm tội gây ra, nhưng bị hại,
nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối nhận, mà số tiền,
tài sản đó đã được giao cho cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án hoặc
cơ quan có thẩm quyền khác quản lý để thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt
hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của người phạm tội gây ra,
Như vậy, trong trường hợp bị hại hoặc nguyên đơn dân
sự từ chối nhận tiền bồi thường, nhưng người phạm tội hoặc người thân đã nộp số
tiền hoặc tài sản đó cho cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án hoặc cơ
quan có thẩm quyền quản lý, thì hành vi này vẫn được coi là tự nguyện khắc phục
hậu quả. Quy định này có ý nghĩa quan trọng nhằm tránh tình trạng bị cáo có
thiện chí nhưng lại không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ này chỉ vì bị hại
không muốn nhận bồi thường.
Thứ tư, Có chứng
cứ chứng minh người phạm tội tự nguyện hoặc đồng ý để cha, mẹ, người khác (vợ,
chồng, con, anh, chị, em, bạn bè...) dùng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường
thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của người phạm tội gây ra,
nhưng bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của bị hại, nguyên
đơn dân sự từ chối nhận và họ đã đem số tiền, tài sản đó cất giữ, gửi giữ để
sẵn sàng thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả khi
có yêu cầu.
Theo đó, trường hợp người phạm tội hoặc người thân đã
chuẩn bị sẵn tiền hoặc tài sản để bồi thường, đồng thời, có chứng cứ chứng minh
đầy đủ như biên bản gửi giữ, giấy giao tiền, giấy gửi ngân hàng…, nhưng bị hại
vẫn từ chối nhận, thì hành vi chuẩn bị đó vẫn được tính vào tình tiết giảm nhẹ.
Trong trường hợp trên, người phạm tội phải đem số tiền, tài sản đó cất giữ, gửi
giữ để sẵn sàng thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu
quả khi có yêu cầu. Quy định này thể hiện sự tôn trọng đối với bản chất thực sự
của hành vi “tự nguyện”, không phụ thuộc vào việc bồi thường có được thực hiện
đến cùng hay không.
Bên cạnh đó, dù thuộc bất kỳ trường hợp nào trong các
trường hợp có thể áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục
hậu quả” trên. Mức độ giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự vẫn phụ thuộc vào sự chủ động, tích cực của người phạm tội
trong từng bước khắc phục hậu quả, cũng như hiệu quả thực tế của việc bồi
thường. Tòa án sẽ cân nhắc thời điểm thực hiện, số tiền bồi thường, mức độ
thiệt hại được khắc phục và thái độ hợp tác của bị cáo để quyết định mức giảm
phù hợp.
Nhìn chung, hướng dẫn mới đã tạo ra bước hoàn thiện
đáng kể trong việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ này. Việc nhận diện rộng hơn các
hành vi thể hiện thiện chí của người phạm tội vừa bảo đảm tính nhân đạo của
chính sách hình sự, vừa bảo đảm công bằng trong lượng hình. Quy định này giúp khuyến
khích người phạm tội chủ động khắc phục hậu quả đồng thời góp phần thống nhất
nhận thức và hạn chế những vướng mắc khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ này trong
thực tiễn xét xử.
Đỗ Ngọc Tuyết Mai

Đăng nhận xét